Chuyện đời lính

Phần 64

2023-05-27 08:33:00

Phần 64: Chuyện cũ ở Thái Lan
Nay hỏng xe nhân cơ hội tranh thủ mặc áo vàng quần hồng, mang thêm cái mắt kính hồng… ôm cái đt ngồi kể vài mẩu chuyện cũ cho bà con nghe chơi chút đầu tuần.

Đang ngồi uống cà phê thì nhìn thấy cây cà độc dược này là bao kỷ niệm ngày xưa rừng rú lại ùa về…

Với ai nó là “độc dược” nhưng với tôi thì lại khác, tôi khá có duyên với cây này hai lần ăn phải nó và hút cái lá nó mà không chết bà con ạ.

Lần đầu ở Kon Tum… lúc đó khổ lắm, chúng tôi được bà con Rắc Lây chỉ cho ăn trái cà đắng, bây giờ thì nó là đặc sản rồi chứ lúc đó chúng tôi ăn nó ban đầu với cơm, sau thiếu gạo thì nấu cháo, rồi hết gạo thì phải nấu nó với măng hoặc củ chụp ăn, mới ăn thì nó đắng không nuốt nổi, nhiều anh em không quen phải bỏ đầy miệng nhai mới khỏi đắng, tôi thì ăn măng đắng nhiều nên không ngại món này lắm, ăn riết còn thấy nó ngon… một hôm trong lúc đi rừng thì anh T tranh thủ hái ít cà, lạng quạng sao anh quơ luôn cả một mớ cà gai này nữa, về nấu với cua rừng và ếch… mấy anh em bị ngộ độc tưởng chết.

Còn lần hai thì ở Pu Sát, Campuchia, chúng tôi bị ngộ độc cá, bắt cá ở suối trong rừng nấu ăn với nhau, ở rừng đó có một loại cá, nhìn nửa giống cá chép nửa giống cá rô phi nhưng màu chúng sậm hơn chút, chúng tôi không biết nên bắt ăn, bị ngộ độc một trận 5 anh em gục tại chỗ miệng nôn trôn tháo, quay cuồng chao đảo, mồ hôi tuôn như tắm giữa đêm lạnh cắt da, thấy màu khó qua khỏi nên mấy anh em bảo nhau lấy đồ lành lặn sạch sẽ mặc vào chết cho đàng hoàng, rồi lết vào gần một cái phum hoang không có dân ở, để chắc ăn nếu có chết thì anh em khác tìm thấy xác, chúng tôi mò vào cái ang tháp của họ ở phìa bìa phum kế cái hồ nước dưới một cây Gáo cổ thụ cụt ngọn, ở khu đó có mỗi một cây Gáo này, cái ang tháp là nơi những nhà giàu xây nên để họ để hài cốt, người Cam không chôn người mà chỉ thiêu rồi lấy cốt đưa lên chùa, nhà nào giàu mới xây ang để chứa những hũ cốt. Khuân những hũ cốt xếp gọn lại, chúng tôi chễm chệ ngự trong ngôi miếu hoang đó chờ cái chết đến, đầu óc quay cuồng cố gắng lắm mới vào được đó nằm, còn phải đuổi rắn nữa vì trong đó khô nên lũ rắn bò vào khá nhiều.

Nằm đó tới sáng thì tôi phải bò ra để đi cầu, ngộ độc cá này nôn ói và đi cầu liên tục người lả đi quay cuồng, mắt hoa cổ khô không nói nổi, ra phía ngoài thì tôi thấy hai cây cà độc dược rất to, tôi nhớ láng máng ngày xưa ông tôi có chữa ngộ độc thực bằng thứ quả này, tôi quơ đại mấy quả và cả lá nó bỏ vào mồm nhai nuốt, bụng nghĩ nếu khỏi thì khỏi không khỏi thì chết cho nhanh chứ cái cảm giác này khủng khiếp quá… vậy mà một lúc sau tôi nôn ra mật xanh mật vàng và đỡ thật, mồ hôi toát ra và dần dần hồn về nhập xác… thấy khỏe hẳn lại, tôi lại chui ra hái thêm một mớ vào cho mấy anh em ăn, nhai thứ quả chết người đấy xong ai cũng ói mật xanh mật vàng và có đỡ thật…

Sau mới biết những con cá đó ăn hạt mã tiền nên thịt chúng rất độc, ngộ độc mà có đường pha ra uống ngay thì cũng đỡ nhiều nhưng lúc đó giữa rừng, đường làm gì có mà uống nên đành chịu, tôi vẫn còn nhớ những con cá đó, nhìn nó giống giống loại cá trong hang cá thần ở Thanh hóa vậy.

Còn hút thứ lá đó nữa… đó là lần một thằng hái nhầm nó là lá cò ke (cây đuôi chồn) đem thái nhỏ quấn hút như thuốc lá, váng hết cả đầu nhưng thật may là không bị ngộ độc, mà lại có vẻ đỡ ho hơn cây cò ke…

Cũng ở khu vực này, gần Tà sanh, dưới một khe nước cách khu công xã bỏ hoang, có lẽ trước đây là phum có dân ở, tôi không biết nó tên là gì trên bản đồ hành quân chỉ có đánh số 37, có khá nhiều cây thốt nốt và đu đủ, có những cây đu đủ to cỡ vòng tay ôm và cao tới chục mét, người Cam ở đâu thì thường trồng cây thốt nốt, chứ rừng hoang thì rất ít thốt nốt, họ cũng không ăn trái đu đủ chín, họ chỉ ăn trái xanh, trái chín lại đem cho bò trâu hay heo ăn… lạ vậy.

Chúng tôi chặt hạ cây đu đủ lấy lõi phơi khô rồi làm thức ăn, khô thì nó ăn như củ cải khô, còn lúc tươi thì rất khó nuốt thứ đó.

Lần đó mò ra suối tắm, tôi và anh L thủ theo một quả MK3 vỏ giấy nện, loại này ngoài công dụng đánh hầm ngầm thì đánh cá là lý tưởng, nhưng hôm đó nó không nổ, chờ mãi… tiếc quả lựu đạn, anh L lại lặn xuống mò quả lựu đạn lên, khi ngoi lên tôi thấy anh giơ hai tay lên khoe… trời ơi, hai tay anh cầm hai mớ… dây chuyền vàng, vàng thật bà con ạ, anh lắp bắp nói dưới đó nhiều lắm. Tôi cũng lặn xuống xem, đúng là có vàng thật, cả dây chuyền, cả vòng và cả vàng miếng cùng xương người, xương xườn xương ống, đầu lâu lớn bé… lổn nhổn. Xương người từng đống trong rừng sâu, dưới khe hay hố ở cái mảnh đất này thì nhiều như củi… nhưng vàng thì khá lạ.

Trước đó vài lần chúng tôi cũng gặp, kinh khủng nhất là một lần khi ở một lòng khe cạn, chúng tôi gặp mấy bộ xương và trong ổ bụng một bộ xương đàn bà có rất nhiều vàng, có thể suy đoán rằng họ nuốt vàng vào bụng và trốn ở hàm ếch dưới khe, rồi mưa lũ đất sập hoặc đói khát rồi chết thì mới còn vàng vậy, chứ dân trong trại tập trung thì làm gì còn vàng bạc gì mà nuốt, còn dân vượt biên thì gặp lính pot hay lính para, xerayka thì chúng sẵn sàng mổ bụng và bẻ răng vàng ngay, rồi có lần túm được hai ba lính para khoác cả ba lô vàng đô la và ngọc phỉ, cái ba lô nặng tới ba chục cân hơn…

Tôi chạy về gọi anh em ra, hỳ hục lặn mò được thêm rất nhiều vàng nữa, đủ mọi hình thù, cục như hai ngón tay cũng có, như chiếc đũa cũng có, rồi nhẫn trơn và vòng rồi dây chuyền có mặt là hình vũ nữ Apsara… rồi hình đầu rắn. Mấy anh em gom lại tới gần chục cân, đùm trong cái ống quần mà xách nặng trĩu tay, bàn giao hết cho đơn vị bạn đang phối hợp, tài sản của người dân họ, của đất nước họ, chúng tôi không quan tâm họ sẽ xử lý thế nào, ra sao, chẳng ai thèm lấy một mẩu nhỏ, dù lúc vớt lên mấy anh em cũng đeo thử vào tay và vào cổ rồi đùa với nhau, như bây giờ có đt có mạng là cũng quăng lên phây búc khoe nhiều vàng không ngay???.

Lính thì đói rách vĩ đại, sống nay chết mai nhưng mang theo vàng là điều tối kỵ với người lính, có cho cũng không thèm lấy.

Tôi từng thấy và chứng kiến nhiều câu chuyện liên quan tới vàng ngọc ở đất nước đó, nó thật kỳ lạ khó hiểu và có nhiều tình tiết khó lý giải thậm chí là ma quái… cũng phải thôi, vì đó là mồ hôi công sức và là máu là mạng sống của họ… lấy những thứ đó thì sẽ phải gánh chịu cả những điều không muốn là đương nhiên, có nhiều người hóa điên hóa dại chỉ vì những thứ đó… chẳng nên tham lam làm gì những thứ không phải của mình, không có nó mình vẫn sống tốt, có nó có khi lại ăn không ngon ngủ không yên như mấy anh bụng to đầu hói mũ cao áo dài bây giờ.

Kể thêm cho bà con nghe một câu chuyện nhỏ này, câu chuyện này khá lạ lùng khó tin và khó lý giải. Câu chuyện này tôi và 4 anh em nữa đều còn sống và hai anh có mặt trong trang tôi cùng chứng kiến…

Đó là khi chúng tôi ở Surin, Thái Lan, nơi này giáp biên giới Cam, phía bên kia dãy Dangrek là tỉnh Oddar meanchey của Campuchia, lúc tình hình chiến sự căng thẳng thì người Thái đã sơ tán dân dọc biên giới vào sâu trong nội địa để lại một vành đai trắng chỉ có các đơn vị quân sự và lũ tàn quân Polpot rút chạy sang đó lập căn cứ hậu phương…

Nơi đó là gần ngã ba Kapchoeng, đi thẳng theo đường 14 lên Prasat, rẽ trái theo đường 83 đi Sangkha qua Punang, Pisoll…

Nơi này trái ngược với phía nam bên kia núi Dangrek là Campuchia, toàn rừng rậm núi đá vực sâu cùng đói khát sốt rét kinh hồn… bên Thái mọi thứ gần như trái ngược lại, địa hình thoai thoải, núi thấp, đất đai trù phú và khí hậu, địa lí lẫn thực vật cũng khác xa bên kia dù cùng dưới chân một dãy núi chạy dài từ Lào xuống phía biển.

Nơi này qua hạ tầng người ta bỏ không cho thấy đó là nơi từng rất trù phú, nhà cửa san sát và khá đẹp, mọi thứ còn y nguyên, người dân chỉ đi sơ tán phòng chiến tranh thôi, bom đạn chưa từng rơi xuống nơi này…

Ở đó chúng tôi làm thuê cho một công ty tư nhân, công việc là chỉ chở gỗ cao su, mủ cao su và trái cây từ khu vực Kapchoeng ra phía ga số 5 Prason, tuyến đường sắt này có nhánh thông với ga Poipet Campuchia, chúng tôi ở gần một cái ga xép nhỏ cầu bơ cầu bất hoang vắng trên con đường sắt dài bất tận xuyên qua những cánh rừng hoang vắng lưa thưa, phía bên kia đường tàu có một khu phố xá khá đông nhà, nhưng không còn dân ở, thỉnh thoảng rảnh rỗi sinh nông nổi chúng tôi mò qua đó “đột vòm” vào nhà chễm chệ ngả ngớn trên salon bật tivi xem tào lao thiên địa mỗi khi tàu sắp qua thì người ta lại đóng điện còn khi tàu đi qua thì nơi đó lại chìm trong đêm tối âm u, đường xá ở bên Thai rất đẹp, bằng phẳng và khá hiện đại dù nơi đó chỉ là tỉnh nhỏ, huyện nhỏ của họ.

Ngày thì lái máy kéo, loại máy kéo Kubota để chở hàng hóa từ rừng ra phía ngoài con lộ 83, do xe ô tô của họ toàn tay lái bên phải rất khó lái, bao lần tập lái chúng tôi toàn lao xuống ruộng nên cũng ngán, máy cày thì ngồi ở giữa lái như xe lam nên dễ xử hơn.

Do lúc đó tụi tàn quân polpot và para còn rất nhiều ở quanh khu vực đó, nhưng được cái chúng không bắn người dân Thái, do chúng đang trú ngụ nhờ bên đât Thái mà, nên chúng tôi thường tranh thủ đi đêm, tuy không lo lắm nhưng vẫn phải đề phòng “hàng hóa” nguỵ trang cẩn thận luôn sẵn sàng…

Một lần kéo hàng từ Punang ra, ba xe sầu riêng, anh em bụng no căng sầu riêng ngồi vắt vẻo trên thành xe, lúc đó tôi cầm lái, tới gần đoạn cua lên cây cầu sắt chỗ cây xăng thì đột nhiên tôi thấy bóng một người con gái đi từ ngoài đường rẽ vào ngôi nhà có cái cổng sắt sơn trắng rất đẹp, tất cả mấy anh em đều thấy không ai bảo ai cùng ngoái cổ lại nhòm gái, ở rừng suốt thấy gái là mắt hấp háy hết… tôi mới đầu không nghĩ gì, nhưng sau đó thoáng có chút lăn tăn… tại sao lại có một cô gái ở nơi này vào giờ này nhỉ? Lúc đó là tầm 3 – 4 giờ sáng chứ có phải ban ngày đâu, họ cấm dân vào lại đây mà… thấy lạ lạ thôi nhưng đang vội nên tạm bỏ qua.

Đêm sau tôi không chạy mà ở nhà, khi về, thằng Đông cùng với anh bạn người Thái tên Phonvi đi hai xe về lại thông báo vẫn nhìn thấy cô đó đi từ cầu sang vào căn nhà đó… tôi thấy có gì đó hơi lạ.

Đêm hôm sau nữa trời mưa nên chung tôi không đi mà nghỉ ở nhà do đường trơn, tôi cùng Th với anh L, anh T, chia ba mũi mò ra xem sao, xác định đúng căn nhà, mấy anh em căng mắt trong đêm mà chẳng thấy gì cả, tới 5 giờ tàu chuẩn bị qua, hai cây đèn đường bắt đầu sáng lên, chúng tôi rút quân, thì khi đi ngang cánh cổng sắt ngôi nhà đó anh L, đi cạnh tôi chợt bấm vào vai tôi và đá mắt vào trong sân ngôi nhà… trời ơi, cả mấy anh em tôi cùng thấy cô gái đó, cô ta ngồi ở ngay chiếc ghế xích đu dưới dàn hoa đăng tiêu và đang đu đưa, cả mấy anh em dừng lại nhìn nhưng không ai dám trèo vào nhà của người ta, không ai bảo ai nhưng mấy anh em cùng thấy thật khó hiểu… tại sao lại có một cô gái ở nơi này trong thời điểm này…

Qua hôm sau, thằng Th, thì thào rủ tôi, lúc đó tầm 10 giờ sáng… Em với anh qua đó đi, mang máy tới đỗ ở cổng vờ hỏng máy trèo vào… nghe bùi tai tôi gật đầu. Hai thằng lái chiếc máy kéo tới cổng ngôi nhà, vờ hỏng máy đứng lại sửa, nhòm ngó xem bên trong thế nào, thật kỳ lạ… cửa đóng và mọi thứ im lìm… bảo Th, đứng ngoài, tôi leo qua cổng mò vào trong, miệng gào ông ổng xem có ai không… nhưng không hề có ai, khoảng sân phía trước cỏ đã lác đác mọc và lá hoa đăng tiêu rụng một lớp khá dày, tôi vờ làng xàng lượn qua lại dưới giàn cây và lén tới gần cái xích đu, nghiêng mặt nhìn lên cái ghế… một lớp bụi khá dày… chưng tỏ lâu không có ai ngồi lên… vậy thì cô gái tối đêm qua ngồi đây là gì nhỉ?

Nghiêng ngó xem mọi thứ xung quanh, tôi đảm bảo rằng căn nhà rất đẹp đó đã lâu không có người ở, mọi thứ đều phủ một lớp bụi…

Đến đêm, rủ thêm anh L, tôi và Th, cùng anh L, kéo ra ngôi nhà đó, anh L, ngồi ngoài sân canh chừng, tôi cùng Th, quyết định leo lên tầng nhòm vào trong… bên trong tối hù, mọi thứ vẫn nguyên vẹn, phòng khách rất đẹp, tranh ảnh treo đầy tường… sau khi mở được khóa tầng hai, hai anh em tôi lần mò vào trong căn nhà… hoàn toàn yên lặng, kiểm tra bếp và bàn nước thì không có dấu hiệu có người ở đó… tới khi lên lầu ba nhỏ nhỏ phía trên, hai thằng sững người, phía trên một ban thờ là một tấm hình, có hai cô gái chừng 16 – 17 tuổi mặc váy hoa xanh nhạt đang khoác vai nhau… sau khi chắp tay cúi đầu xin lỗi họ, chúng tôi trở xuống, lần mò leo ra ngoài sau khi khóa căn nhà cẩn thận lại.

Có môt việc rất lạ xảy ra khi chúng tôi leo qua hàng rào ra ngoài… cây đàn piano ở phòng khách khi nãy tôi đã kiểm tra kỹ, và đang đóng nắp bỗng vang lên hàng loạt âm thanh nghe rõ mồn một… ngay lập tức tôi cùng Th, nhảy ngược trở lại sân và lao như bay vào nhà, bật đèn soi qua cửa kính… cây đàn vẫn y nguyên nắp đậy, không có ai trong nhà cả… Th, đứng yên và chăm chú nhìn phía căn phòng, nó chỉ cho tôi tấm rèm cửa dường như vẫn còn lay động nhè nhẹ, trong nhà thì không có gió…

Nhìn một lúc rồi hai thằng tắt đèn quay ra, khi đi ra tôi khẽ kín đáo liếc cái xích đu, vì nó khẽ đu đưa nhè nhè nhẹ nhẹ… có thể là do gió thổi…

Sau này mỗi khi nhắc tới chuyện này mấy anh em vẫn thắc mắc với nhau, không hiểu cô gái chúng tôi từng nhìn thấy đó là người hay là thứ gì nữa…

Cũng có thể là chúng tôi nhìn lầm hay nghe lầm những âm thanh thôi.

Ở rừng thì toàn thấy khỉ nên ra phố thấy các em gái thì hoa mắt là đương nhiên thôi phải không bà con.

Bạn đang đọc truyện trên: BimDep.Pro

Nhận xét của độc giả về truyện Chuyện đời lính

Số ký tự: 0